Vợ tôi không phải là một người đàn bà có nhan sắc
khuynh nước đổ thành. Bởi tôi, vốn tài mạo tầm thường
và cũng không có nhiều may mắn bất ngờ để lọt mắt
xanh những cô có nhan sắc chim sa cá lặn. Vả lại tôi
cũng thường nghe bố tôi tuyên truyền nhồi nhét trong
cái đầu từ nhỏ rằng, đẹp đến mấy rồi cũng trở thành
méo mó xấu xí, và vợ đẹp là vợ người ta. Vợ tôi cũng
không có tài ba xuất chúng, bởi tôi vốn nể sợ và có
thành kiến với những người đàn bà tài giỏi, vì họ thường
kiêu ngạo và hay thành độc tài vợ trị. Ðộc tài đảng trị thì
có thể bỏ nước chạy ra biển chết, chứ độc tài vợ trị thì
không chạy đâu cho thoát cả!
Vợ tôi chỉ là một người đàn bà trung bình trên tất cả
mọi mặt. Với một vóc dáng tầm thường bên ngoài, không
vêu vao xấu xí khó nhìn. Bên trong nàng mang một tấm
lòng hiền hậu, bao dung, biết hành xử khôn ngoan khéo
léo, để đem lại cho gia đình hạnh phúc êm ấm lâu bền
mà tôi vô cùng biết ơn mỗi khi nghĩ đến.
Trong nhiều năm chung sống, chưa bao giờ nàng nặng
lời với tôi, chưa bao giờ có cử chỉ hay ngôn ngữ thiếu
lịch sự, cũng chưa lần khóc lóc giận hờn đòi hỏi điều
này điều kia, hoặc đặt điều kiện làm khó, hay so đo
chuyện nhà với gia đình người khác.
Ngoài tình cảm thắm thiết chia sẻ của vợ chồng, nàng âu
yếm như một người tình, khoan dung rộng lượng như
một người mẹ và hiểu biết như một người tri kỷ.
Năm tôi hai mươi tám tuổi, mẹ tôi nóng ruột thúc hối ép
tôi lập gia đình. Bà đưa cái công thức cổ xưa của mấy
ông Tàu bày ra là “tam thập nhi lập”. Tôi cũng chưa đến
ba mươi, mẹ tôi cứ gán đại thêm cho hai tuổi để dễ bề
ép uổng. Tuổi đó, thích được quen nhiều bạn gái, bạn
thôi thì được, nhưng nghe đến chuyện hôn nhân là xanh
mặt. Vì qua kinh nghiệm bạn bè, kinh nghiệm giao tiếp
trong sở, tôi thấy đa số mấy anh có vợ rồi thì dường như
bị khép chặt trong cái vòng “chuyên chính” của bà vợ
nhà! Cái vòng tuy lỏng lẻo và êm ái, nhưng bằng sắt, rất
chặt và siết cứng. Một anh bạn thân, lâu lâu giận vợ,
đến nhà tôi ở lại, nằm rũ ra trên giường như đống mền
rách rầu rĩ nói với tôi:
- Tao chỉ mong có được một ngày an bình, sung sướng
như mày, một ngày thôi cũng đủ.
Nghe thế thì không sợ sao được? Trong sở tôi có mấy
anh bạn bị vợ cào rách mặt và phải lấy cớ là dao cạo
râu cắt. Ai cũng biết chuyện gì đã xảy ra, vì mặt mày các
anh láng lẫy, trơn tru, có sợi râu nào đâu mà phải cạo
cho dao cắt! Một ông lớn tuổi khác, vợ vào tận sở xé áo
và kêu bằng mày tao, còn tố cáo ông mang bằng kỷ sư
giả bên Pháp về. Nhan nhản những tấm gương gia đình
u ám trước mắt như vậy, thì chỉ có ngu quá hoặc liều
mạng mới không sợ mà thôi.
Tôi khất lần mãi không được, phải bẻn lẻn theo mẹ, đi
ra mắt, và xem mặt nhiều cô con gái các gia đình mà bà
quen biết. Tôi theo lời dạy của một anh quân sư quạt
mo, cứ mang bộ mặt đưa ma đến nhà người ta và ăn nói
nhát gừng cộc lốc, thì không ai muốn gả con gái cho, và
các cô thấy vậy thì cũng ớn lạnh mà dạt ra. Thế mà
cũng có nhiều nhà khen tôi hiền lành, muốn gả con gái
cho. Tôi tìm đủ lý do nói riêng với mẹ để chê bai từ
khước. Cô thì chê mặt dài, cô thì chê mũi lớn, cô khác
chê mắt có đuôi, cô thì mồm như có râu. Toàn cả những
lý do vu vơ. Mẹ tôi phiền muộn thở dài, vì biết con trai
bà cũng chẳng có sự nghiệp gì sáng giá, chẳng có một
phong cách đặc biệt nào, mà đòi hỏi quá đáng chăng?
Không nỡ để mẹ buồn, tôi đem Lam, người bạn gái thân
thiết nhất về giới thiệu với mẹ, bà vui vẻ chịu ngay. Bà
khen Lam láu lỉnh, bặt thiệp và xinh đẹp.
Mẹ tôi đến thăm xả giao nhà Lam hai lần để dò xét gia
thế, và quyết liệt chống đối cuộc hôn nhân, lấy lý do là
mẹ Lam dữ dằn và có cách cư xử thiếu lễ độ với chồng.
Tôi nói:
- Con cưới Lam chứ cưới bà ấy đâu mà mẹ sợ?
Mẹ tôi nhất quyết tin rằng, mẹ hổ thì khó sinh được con
cừu. Vì cách đối xử của cha mẹ, ảnh hưởng đến tính tình
con cái. Cha mẹ dữ dằn, con cái khó mà hiền lành được,
vì ngày ngày học cách ăn nói, cách đối xử, tiêm nhiễm
những thói quen của cha mẹ, và đem ra xử sự với đời,
mà không biết đó là xấu. Tôi cố bào chữa cho Lam,
nhưng mẹ tôi đã nhất quyết, không lay chuyển được. Bà
nói:
- Mẹ thương con, mẹ không muốn sau này con khổ vì đời
sống gia đình thiếu hạnh phúc. Vì không có gì khổ bằng
có vợ dữ dằn, hỗn láo, có thể làm người chồng buồn
phiền sinh ra rượu chè, cờ bạc, trai gái hư hỏng. Mẹ
thương con, lo cho tương lai con nên mẹ không chịu.
Tôi định nói với mẹ rằng, con trai của mẹ cũng chẳng
hiền lành chi, mà chê thiên hạ. Nhưng sợ mẹ buồn nên
im lặng. Mẹ của Lam biết được ý kiến của mẹ tôi, nổi tự
ái, nói nhiều lời tàn nhẫn, tổn thương đến gia đình tôi,
và tuyên bố không bao giờ gả Lam cho tôi.
Khi bị trắc trở, ngăn cấm thì tình yêu càng thêm tha
thiết bốc lửa, và hai đứa tôi càng quyết vượt qua hàng
rào ngăn cản của gia đình. Muốn sống cho nhau, và sống
chết vì tình yêu.
Một lần chìu ý mẹ, tôi miễn cưỡng đi xem mặt một cô mà
mẹ tôi gọi là gia đình phúc hậu đàng hoàng. Tôi chẳng
tha thiết gì, chỉ giữ đủ lịch sự tôi thiểu để cho mẹ khỏi
mất mặt.
Lần đó Lam biết được, nàng giận dữ sỉ vả tôi:
- Anh là một thằng đểu cáng, xấu xa đê tiện, một kẻ hèn
nhát núp váy mẹ, không dám làm gì cả. Anh không xứng
đáng với tình yêu của tôi.
Tôi nghe mà bàng hoàng, như bị sét đánh. Hai đứa giận
nhau. Tôi chợt nhớ tới lời nhận xét của mẹ, và thấy bà
cũng có lý phần nào. Nhưng tim tôi vẫn nát tan xót xa vì
chuyện tình đổ vỡ. Ngay sau đó, Lam có người yêu mới
là Tuân. Tuân cũng là trong đám bạn bè quen biết lâu
dài với tôi, tính tình Tuân hiền lành, chịu đựng, và Tuân
đã bền bỉ theo đuổi Lam từ lâu. Nửa năm sau, tôi đi dự
đám cưới Tuân, Lam với trái tim vỡ nát, nhưng cũng vui
mừng vì Lam lấy được chồng hiền lành và đàng hoàng,
có thể bảo đảm đời sống tinh thần vật chất cho gia đình
sau này. Tôi thật tình nghĩ rằng, tôi không bằng được
Tuân về nhiều mặt. Lam bỏ tôi là phải.
Mẹ tôi làm như lấy vợ cho bà, cứ khóc lóc thúc giục mãi.
Tôi tâm sự với một người bạn cũ. Anh cười và nói:
- Hay là cậu thử tìm hiểu Mai, em gái tôi xem sao. Nó
cũng sẵn có cảm tình với cậu đó. Mai hiền lành lắm.
Ðược bạn khuyến khích, tôi bắt đầu tìm hiểu Mai. Nàng
không đẹp, không xấu, chăm chỉ, hiền lành. Trước đây,
đến nhà bạn chơi, tôi chỉ thấy Mai thấp thoáng đâu đó
sau bàn học, hoặc lẳng lặng rút lui sau khi cúi đầu chào
lễ phép. Dẫn Mai đi chơi, tôi không tìm hiểu được chi
nhiều về Mai, vì nàng quá thụ động, khi nào cũng nhẹ
nhàng chìu chuộng, ít đưa ý kiến riêng. Khi hỏi ý, nàng
thường bảo:
- Dạ, anh cho em đi đâu cũng thích cả, anh vui thì em
cũng vui.
Tôi đem nhận xét về cái hiền lành của Mai nói với một
người bạn. Anh cười hô hố và nói:
- Trời ơi, khi mới quen thì em nào mà không hiền lành
như thánh mẫu, dịu dàng như tiên cô. Khi cưới về thì
cái đuôi dài thòng mới lòi ra, và dữ như chằng tinh. Em
nào cũng vậy cả.
Tôi hỏi thẳng anh của Mai, anh trả lời:
- Con nhỏ hiền lành, biết nhường nhịn và rất dịu dàng.
Cậu có phước lắm mới gặp nó. Không phải vì nó là em
gái mà tôi khen đâu.
Mẹ tôi đến thăm gia đình Mai nhiều lần, khen mẹ của
Mai phúc hậu, hiền lành, cư xử lịch sự, phải phép với
chồng. Bà nghĩ rằng, nhất định Mai cũng học được nề
nếp gia đình của mẹ, không nhiều thì ít. Bà thúc tôi làm
đám cưới ngay. Tôi xin hoãn một thời gian để tìm hiểu
thêm, mẹ không chịu và bảo:
- Lấy vợ thì lấy liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm
pha.
Tôi nói rằng, nếu nghe được lời dèm pha đúng, thì cũng
là điều tốt, mình khỏi phải xét đoán lầm người. Mẹ tôi
lại giảng cho tôi rằng, chín mươi phần trăm cách cư xử
của con cái là do ảnh hưởng sinh hoạt tốt xấu của cha
mẹ. Cha mẹ gieo vào đầu con cái thứ tư tưởng nào, thì
nó sẽ hành động theo lối đó. Thương mẹ, tôi tạm quên
kinh nghiệm ghê gớm trong đời sống gia đình của bạn bè
và đồng sự, liều thân lấy vợ cho mẹ vui lòng. Có một ông
bạn bảo rằng, lại thêm một thằng đàn ông ngu muội đi
vào vết xe đổ nghìn năm của nhân loại.
Tôi cưới Mai, nàng như cái bóng dịu hiền bên tôi.Tôi
thấy mình tan loãng vào tình yêu êm đềm, và chợt nhận
ra đời sống gia đình êm ái, thoải mái và hạnh phúc hơn
nhiều lần đời sống độc thân. Không thấy gò bó tù túng
trong dây ràng buộc của gia đình như nhiều người
thường bảo. Mai lo lắng cho tôi những thứ cần thiết lặt
vặt trong cuộc sống bình thường, bổ khuyết cho tôi
những thiếu sót, dịu dàng an ủi tôi những khi lo buồn.
Tôi nói với vợ:
- Anh ngu quá, biết lấy vợ mà sung sướng hạnh phúc
như thế này, thì đâu để độc thân đến gần ba mươi tuổi.
Uổng thật.
Những khi chúng tôi có ý kiến trái ngược, Mai dịu dàng
phân tích thiệt hơn cho tôi nghe, rồi để cho tôi quyết
định. Sau khi quyết định xong, dù có trái ý nàng, Mai
cũng vui vẻ cố gắng giúp tôi hoàn thành công việc.
Không như các bà khác, những lúc chồng làm trái ý, thì
các bà mong cho ông chồng thất bại để chứng tỏ ý kiến
của bà là đúng, là hay. Mai thường nói:
- Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn. Nếu ai
cũng khăng khăng giữ ý của mình, thì chẳng làm nên
được việc gì cả.
Cũng có khi quyết định của tôi sai lầm, đưa đến kết quả
không tốt. Những lúc này, Mai thường hết lời dịu dàng
an ủi tôi, và cho rằng tôi không có lỗi gì cả, ví ai cũng có
thể sai lầm, và Mai cho rằng nàng cũng có phần lỗi, vì
chưa tận tình giúp tôi đầy đủ ý kiến để làm quyết định.
Từ đó, tôi cảm thấy mình phải lắng nghe ý kiến của vợ
nhiều hơn.
Tôi nghĩ, nếu những lúc này mà Mai dằn vặt, nằng nặc
buộc tôi tôi, thì chưa chắc tôi đã thấy mình lầm lỗi. Mai
không như một số đàn bà khác, đúng hay sai cũng đổ lỗi
cho chồng, và những khi chồng thất bại trong đời, là cái
dịp cho các bà chê bai, mai mỉa, nói những lời tàn nhẫn.
Ngoài xã hội, có những lúc tôi vô tình hoặc thiếu may
mắn, gây nên những sai lầm với người khác, Mai tự
đứng ra, gánh vác hết trách nhiệm thay tôi. Tự ái đàn
ông, đâu cho phép tôi để vợ gánh vác trách nhiệm thay
mình. Tôi thấy thương và quý vợ nhiều hơn. Mai bảo:
- Chuyện nhỏ, để em gánh vác giúp, anh để tâm trí làm
những việc khác ích lợi hơn.
Tôi thầm nghĩ, tôi thì làm chi có việc lớn mà gánh vác.
Những năm mới lấy nhau, tài chánh gia đình khó khăn,
đắp trước bù sau hàng tháng. Áo quần đơn sơ, ăn uống
dè xẻn. Thế mà Mai bao giờ cũng vui vẻ, chưa bao giờ
nghe Mai than thở hoặc so sánh với các bạn bè khác.
Nàng thường nói:
- Chúng ta nghèo vật chất, nhưng giàu hạnh phúc, tinh
thần thanh sạch, thế là đủ. Ðời sống biết đủ là đủ.
Chính vì Mai không than thở, nên tôi thấy mình có trách
nhiệm nhiều hơn về tài chánh gia đình. Buổi chiều về,
tôi đi dạy thêm cho các lớp đêm. Ngày nghỉ, tôi mở lớp
dạy kèm luyện thi cho từng nhóm nhỏ. Tài chánh gia
đình nhờ đó mà dồi dào hơn, có thêm tiền, nhưng Mai
không vui, mà chỉ lo cho tôi thiếu sức khỏe sinh bệnh
hoạn.
Năm đó, tôi không chịu theo bè cánh với nhóm tham
nhũng, chúng đày tôi về một tỉnh nhỏ xa xôi. Tôi buồn
phiền lắm. Không đi thì không được, đi thì bỏ hết công
chuyện làm ăn riêng tư. Mai khuyên tôi nhẫn nhịn, và
gắng tìm vui trong hoàn cảnh mới. Khi chúng tôi về tỉnh
nhỏ, Mai thường an ủi và nâng đở tinh thần tôi, đặt mua
các thứ sách báo tôi thích, để giải trí và quên đi phần
nào nổi buồn nơi tỉnh nhỏ. Mai xin được việc ở một nhà
dạy trẻ, để phụ thêm kinh tế gia đình….
Khi chạy vội về Sài Gòn vào năm 1975, chúng tôi mất tất
cả, trở thành trắng tay. Tôi lo lắng và muộn phiền lắm,
nhưng nhờ thái độ trầm tĩnh và chịu đựng của Mai mà
tôi bớt bối rối. Trước ngày miền Nam sụp đổ, chúng tôi
bàn nhau là nên ở hay đi. Ý Mai thì nên đi để bảo toàn
tính mạng cho gia đình, khi yên ổn thì quay trở về cũng
chẳng mất mát gì. Phần tôi thì vì yêu mến quê hương
một cách lãng mạn, quyết ở lại, muốn cùng chia sẻ khổ
đau, sống chết cùng quê hương. Chủ nghĩa đối với tôi
không quan trọng, tôi nghĩ chính thể nào cũng thế thôi,
cũng cùng là người Việt, cùng giòng giống tổ tiên, thì việc
gì mà phải bỏ chạy? Tôi đã lầm to. Thảm họa trùm
xuống khắp miền Nam. Ðau khổ, lao tù, đói lạnh, đè nén,
áp bức. Tôi cũng ôm gói đi tù như mọi bạn bè, Trong tù,
tôi vô cùng ân hận về quyết định sai lầm, để thân xác
mình bị tù đày, để vợ con bơ vơ, đau khổ, đói rách,
không vốn liếng, không tài sản. Ba tháng sau khi tôi đi
tù, Mai thấy chồng chưa được thả về, đã xoay xở rất
mau. Nàng mua áo quần cũ, cắt ra may thành áo quần
trẻ em đem bỏ mối tại các chợ trời hè phố. Ðêm nào
cũng may đến mười hai giờ khuya. Một mình nuôi chồng
tù tội, nuôi con thơ dại, ngược xuôi trong cuộc đổi đời.
Những năm tháng nằm tù, có nhiều thì giờ suy nghĩ, tôi
mới sâu sắc nhận ra mình mang ơn vợ quá nhiều. Tình
cảm nàng dành cho tôi tràn đầy dịu dàng, bao dung, âu
yếm và hy sinh. Tôi biết mình là kẻ có phước được vợ
hiền….
Khi tôi được ra tù, thể xác tiều tụy, tinh thần suy nhược,
đời sống bất ổn, bị đe dọa thường trực. Hàng tuần bị tên
công an khu vực đến thúc giục đuổi đi về vùng kinh tế
mới, và nói lời hăm dọa. Tôi nản lòng bàn với Mai để
dọn về vùng kinh tế mới cho yên thân. Nàng đã khôn
ngoan giải thích rằng, bằng mọi giá phải bám vào thành
phố, để sống còn và để bớt bị độc tài áp bức, bớt khốn
khổ vì cái u mê của chế độ hành hạ. Nàng thường
khuyên tôi:
- Mình hãy xem cuộc đời này như một trò chơi không
vui, đừng quá quan tâm đến những gì xảy ra cho mình,
cho thiên hạ chung quanh. Những đau khổ mà mình
đang chịu đựng cũng là một thứ thử thách, làm cho mình
lớn thêm lên, trưởng thành hơn, và cứ vui với những gì
nhỏ nhoi nhất có thể có trong thời gian này. Không xấu
xa nào có thể tồn tại mãi mãi được, ánh sáng tương lai
sẽ có ngày chiếu rọi trên quê hương.
Mai đã an ủi, khuyên nhủ và dịu dàng dắt tôi đi qua
quãng đời đau khổ trong chế độ lạ lùng vô nhân kỳ quái
này. Chúng tôi bữa đói bữa no dắt nhau đi trong đời
sống mịt mù của xã hội chủ nghĩa trá hình.
Khi tôi ngỏ ý tham gia một tổ chức phục quốc chống lại
chính quyền cộng sản trong thành phố, thì Mai đồng ý
ngay. Nàng nói:
- Chúng ta đã vất súng đầu hàng, chỉ mong được bình
yên sống và góp phần xây dựng lại quê hương.
Nhưng kẻ chiến thắng đọa đày nhân dân xuống vực
thẳm. Không cho ai yên sống. Chính họ đã buộc chúng ta
đứng dậy, cầm lại súng. Việc đáng làm thì phải làm. Nếu
ai cũng trốn tránh cả, thì đau khổ này biết bao giờ dứt
được? Nhưng phải thận trọng để khói phí thân làm việc
dã tràng.
Cùng với bạn bè cũ mới, chúng tôi tổ chức mua súng,
liên lạc với các nhóm kháng chiến khác. Ra một tờ báo
bí mật chuyền tay. Mai đã ngược xuôi giúp đỡ chúng tôi,
mang tin tức, chuyển vận hàng hóa. Chúng tôi mơ mộng
một ngày ánh sáng tự do chiếu rọi trên quê hương, trở
lại đời sống không áp bức kẹp kềm.
Một vài người trong nhóm bất cẩn, tổ chức bị đổ bể, đa
số anh em bị bắt. Tôi chạy thoát được với cái áo có
nhiều lỗ đạn bắn thủng bên hông. Mai nhờ người nhắn
tôi bình tĩnh chờ nàng sắp đặt.
Nàng vay mượn và bán hết đồ đạc trong nhà, đóng tiền
cho tôi bí mật vượt biên…Phút cuối chủ thuyền cho vợ
con tôi cùng đi với lời hứa trả tiền sau. Tôi cám ơn Trời
Phật đã xui khiến cho chúng tôi còn có bên nhau trong
đời.
Trên biển đói khát Mai nhường phần ăn uống cho con,
cho chồng, với lý do là tôi cần sống hơn nàng, tôi có thể
làm được nhiều việc ích lợi hơn. Nhưng theo ý tôi, thì
chính Mai mới xứng đáng để sống sót vì đời sống nàng
có nhiều ý nghĩa, tốt đẹp hơn.
Những ngày khó khăn nắng cháy cực khổ tại trại tỵ nạn,
nàng dành lấy hết tất cả việc vặt vãnh như lãnh thức
ăn, xách nước, nấu nướng, chăm sóc con cái, để cho tôi
có thì giờ tham gia tiếp tay phụ giúp các công tác chung
trong trại. Mai dặn tôi tráng xa những nơi có tranh
giành, có chút quyền lợi, chỉ kê vai gánh vác những việc
có ích chung mà không ai làm. Với khuyến khích và an
ủi của vợ, tôi làm được nhiều việc hữu ích cho cộng
đồng. Trong lúc đó, một vài anh bạn tôi, tham gia việc
cộng đồng mà như làm việc quốc cấm, bị vợ cằn nhằn,
ngăn cản, mỉa mai rằng việc nhà thì nhác, việc chú bác
thì siêng. Nhiều người than vãn về những thiếu thốn,
khó khăn, cực khổ trong trại tỵ nạn. Mai thì khi nào
cũng vui vẻ, lạc quan, và cho rằng tương lai được sống
đời tự do đang rõ ràng trước mắt. Những thiếu thốn khó
khăn trong trại tỵ nạn là đương nhiên. Ở đây cũng còn
sung sướng hơn những ngày tháng sống với chế độ công
sản u ám, bất trắc, chèn ép, sợ hãi. Những khi con tôi
chê cơm, Mai nhắc nhở cho chúng những ngày khoai sắn
qua bữa, những ngày đói khát trên biển khơi, thì chúng
vội vàng ăn ngon lành những chén cơm trong trại tỵ
nạn.
Chúng tôi đến Mỹ vào mùa Ðông, tuyết phủ ngút ngàn,
trắng xóa cả đất trời. Chưa biết có thể làm gì để nuôi
sống gia đình trong miền đất mới, nhưng nhờ trợ cấp xã
hội trong thời gian đầu, đắp đổi tạm sống qua ngày. Dù
không dư giả, tiền trợ cấp xã hội được Mai chia ra làm
ba phần: hai phần ba nuôi sống gia đình với chi tiêu dè
xẻn tiện tặn, một phần ba gởi về giúp những bạn bè
đang đói khó khắc khoải trong lao tù, trong các vùng
kinh tế mới….
Hai vợ chồng dắt nhau đi tìm việc, và không nản lòng.
Tôi tìm được một chân rửa chén bát tại khách sạn
Holiday Inn. Mai tìm được một chân làm bánh ngọt
Donut. Chúng tôi tự túc được rồi, và từ đó mà tiến lên,
tôi tìm được công việc khác trong hãng tiện có đồng
lương khá hơn.
Chúng tôi bắt liên lạc với bạn bè xa gần, và ao ước được
đóng góp phần nào vào nỗ lực làm vơi khổ trên quê nhà.
Thư của bạn bè hồi âm với lời lẽ bi quan, nhiều người
khuyên tạm quên chuyện quê hương đi, mà lo cho đời
sống bản thân và gia đình trước đã…
Nhiều đêm Mai thì thầm:
- Chúng ta có yên lòng hưởng hạnh phúc, tự do khi cả
quê hương đang chìm đắm trong khổ đau? Chúng ta có
quên được bao nhiêu người đang kỳ vọng chúng ta nơi
quê nhà? Liệu chúng ta có làm được gì không hay chỉ
mải mê lo cho đời sống riêng tư? …
Chưa bao giờ tôi nghe Mai phàn nàn, sanh nạnh với tôi
về công việc trong nhà.
Chưa bao giờ nàng lên giọng sai bảo tôi hút bụi, quét
nhà, rửa chén bát. Nếu rảnh, thì tôi làm, nếu tôi bận
xem những trận thể thao hấp dẫn, thì thôi. Nhiều lúc
Mai không cho tôi rửa chén bát, giành lấy mà làm, vì
những lúc đó nàng rảnh rang.
Chúng tôi cùng làm việc nhà trong tinh thần chia sẻ,
không phải trong trách nhiệm phân chia việc nào chồng
làm, việc nào vợ làm. Mai chưa bao giờ tranh hơn thua
với chồng. Nàng quan niệm rằng, vợ chồng không cần
tranh hơn thua nhau, hơn chồng cũng không được gì mà
chỉ tổ tình yêu bị tổn thương.. Chưa bao giờ Mai lớn
tiếng hay khăng khăng quyết đoán việc gì. Khi nào cũng
dịu dàng thảo luận và sẵn sàng chờ lúc thuận tiện để
thuyết phục thêm. Tôi đã nghe thấy vợ nhiều người bạn,
sẵn sàng xẵng tiếng với chồng, mở miệng ra là nói nặng
lời, nói điều chua chát khó nghe, và tôi biết mình may
mắn có vợ hiền …
Những lúc tôi gặp khó khăn ngoài xã hội, mang bực bội
và cái không vui về nhà, Mai thường khuyên tôi rằng:
- Mục tiêu tối thượng của đời người là đi tìm hạnh phúc.
Ði làm kiếm tiền cũng chỉ để mua hạnh phúc. Hạnh
phúc đích thực của cuộc sống là gia đình vui vẻ, ấm êm
và dễ chịu. Không tội chi đem cái khó khăn bực bội của
bên ngoài về nhà cho mất vui, mà phí phạm ngày tháng
yên ấm của gia đình. Dù giàu sang danh vọng đến mấy,
mà gia đình thiếu hạnh phúc thì đời không còn ý nghĩa
gì.
Thế là tôi tìm được nguồn vui và yên tĩnh tâm hồn…
Nhiều khi nằm bên nhau, tôi hỏi Mai:
- Sao hơn mười mấy năm sống bên nhau, chưa bao giờ
em làm cho anh buồn lòng, chưa bao giờ em làm cho
anh phải nổi giận. Em có khi nào buồn giận anh không?
Nàng nói:
- Sách dạy cho em biết rằng, người cho thì được nhiều
hạnh phúc hơn người nhận. Không cầu thì sẽ được,
không đòi thì sẽ có. Biết vui với cái tương đối mà mình
đang có, thì trở thành kẻ sung sướng nhất trong đời. Cho
đi tình thương chân thành, thì được nhận lại bằng tình
thương. Nhiều người đàn bà đòi hỏi ở chồng quá đáng,
ngoài khả năng của chồng. Bao nhiêu cũng không thỏa
mãn cả. Họ không nhìn thấy sự hy sinh của người khác,
mà chỉ cố bươi móc lỗi lầm cỏn con của chồng để mà
trách móc, giận hờn. Làm thế không có lợi gì cả, mà chỉ
là cách phá hoại hạnh phúc gia đình hữu hiệu nhất.
Tôi thành thực mà nói rằng đã học được rất nhiều điều
tốt của vợ tôi. Nàng càng dịu dàng, càng thu mình nhỏ
lại, thì tôi càng thương yêu trang trải bù đắp cho vợ
nhiều hơn. Mỗi khi đi làm về, thấy nét mặt tươi vui hân
hoan của vợ, thì bao nhiêu mệt nhọc bực bội trong ngày
đều tiêu tan.
Khi tôi phạm phải lỗi lầm, hành động sai quấy, vợ tôi
thường an ủi rằng, mình là con